Chức năng – Nhiệm vụ

* Chức năng, nhiệm vụ của Công ty:

– Quản lý, khai thác và bảo vệ hệ thống công trình thuỷ lợi nhằm đáp ứng yêu cầu về nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiêp, giao thông thuỷ, dân sinh và các ngành kinh tế khác của tỉnh.

– Thực hiện quy hoạch, kế hoạch, quy trình vận hành hệ thống công trình thuỷ lợi, Công ty quản lý theo dự án , thiết kế và quy trình được duyệt. Tổ chức chỉ đạo, điều hành sản xuất kinh doanh, quản lý tài chính theo luật doanh nghiệp Nhà nước.

– Duy trì và phát triển năng lực công trình, đề xuất với cấp có thẩm quyền việc từng bước nâng cấp hiện đại hoá hệ thống công trình.

– Theo dõi, phát hiện và sử lý kịp thời các sự cố công trình, kiểm tra và sửa chữa công trình thường xuyên trước và sau mùa mưa bão, đảm bảo yêu cầu phục vụ sản xuất và phòng chống lụt, bão, úng.

– Lập dự án, khảo sát và thiết kế kỹ thuật, dự toán; tổ chức thi công xây dựng, sửa chữa, nâng cấp các công trình thuỷ lợi nhỏ thuộc nguồn vốn do Công ty quản lý và nguồn vốn Nhà nước được phân cấp trên cơ sở đăng ký sản xuất kinh doanh.

– Làm chủ đầu tư trong việc duy tu, sửa chữa, nâng cấp và xây dựng mới công trình thuỷ lợi, duy trì, phát triển năng lực công trình bằng nguồn vốn Công ty quản lý và các nguồn vốn khác được phân cấp , đảm bảo công trình an toàn và sử dụng lâu dài. Ký kết và thanh lý các hợp đồng kinh tế, kỹ thuật về khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.

– Quan trắc, theo dõi, thu thập các số liệu theo quy định nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ vào việc khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.

1. Công tác quy hoạch thủy lợi

Trong điều kiện phát triển kinh tế-xã hội với tốc độ cao như hiện nay thì hiện trạng hệ thống công trình thuỷ lợi không còn phù hợp với thực tiễn. Theo quy hoạch phát triển thuỷ lợi được xây dựng cách đây hàng chục năm thì hệ số tưới là 1,53 l/s/ha (đối với tưới ải), 1,10 l/s/ha (đối với tưới dưỡng) và hệ số tiêu mùa Bắc Kim Sơn là 4,65 l/s/ha, Tây Nam Cửu An là 5,56 l/s/ha, Văn Giang là 4,51 l/s/ha, Ân Thi- đường 39 là 4,85 l/s/ha. Song hiện nay quá trình đô thị hoá, công nghiệp, giao thông… phát triển nhanh, làm thay đổi các yếu tố tự nhiên và kinh tế- xã hội, dẫn đến thay đổi các chỉ tiêu thiết kế, hệ số tưới, tiêu phải gia tăng lên nhiều lần mới đáp ứng được yêu cầu hiện tại. Như vậy, thực tế sản xuất và đời sống xã hội đòi hỏi phải tiến hành lập quy hoạch phát triển thuỷ lợi phù hợp, Công ty TNHH MTV Khai thác Công trình thủy lợi tỉnh với chức năng là đơn vị trực tiếp quản lý sử dụng đã tiến hành rà soát lại toàn bộ hệ thống, phát hiện và xử lý những bất hợp lý giữa phát triển thủy lợi với phát triển các ngành khác. Để thực hiện được vấn đề này cần đầu tư hiện đại hóa hệ thống máy móc, công trình từ đầu mối kênh mương và công trình trên kênh, nâng hệ số tưới, tiêu phù hợp với tốc độ phát triển chung của tỉnh ở những năm tiếp theo. Căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội tham mưu với Tỉnh bổ sung các công trình tiêu úng, bảo đảm tiêu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và các lĩnh vực khác. Giải quyết dứt điểm tình trạng ách tắc dòng chảy bèo sen trênhệ thống công trình thủy lợi do Công ty quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nước, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật thủy lợi vào các khâu quản lý điều hành, cũng như thiết bị công trình. Gắn công tác thủy lợi với việc sử dụng nguồn tài nguyên nước hiệu quả và bền vững.

2. Công tác đầu tư xây dựng cơ bản

2.1. Công tác quản lý chi phí dự án

Quản lý chi phí dự án là một trong 3 nội dung quan trọng nhất, được quan tâm nhất của quản lý dự án đầu tư xây dựng. Trong điều kiện thực tiễn hiện nay của nước ta về quản lý dự án đầu tư xây dưng, việc tăng cường công tác quản lý chi phí dự án trở lên hết sức cấp thiết và cần phải được đẩy mạnh thực hiện. Công tác này sẽ giúp kiểm soát và khống chế chi phí bảo đảm cho dự án đạt được hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế – xã hội đã được xác định, tiết kiệm được vốn đầu tư. Để thực hiện tốt công tác quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng thủy lợi ở Hưng Yên, cần thực hiện tốt các nội dung sau:

– Lựa chọn đơn vị tư vấn thiết kế có năng lực: Giải pháp thiết kế, quy mô công nghệ, lựa chọn vật liệu và kết cấu xây dựng, lựa chọn thiết bị có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí của dự án, để giải quyết vấn đề này thì cần quản lý tốt chất lượng của các cơ quan, đơn vị tư vấn thiết kế và nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, phê duyệt dự án. Việc lựa chọn nhà thầu tư vấn phải được chú trọng, cương quyết không sử dụng những tư vấn kém chất lượng thể hiện qua những sản phẩm mà họ đã thực hiện. Chỉ sử dụng tư vấn thực sự có năng lực chuyên môn và lấy năng lực chuyên môn là tiêu chí hàng đầu để lựa chọn chứ không coi trọng về kinh phí phải trả cho tư vấn vì lẽ thường kinh phí này thấp hơn rất nhiều sơ với kinh phí xây lắp của dự án. Đẩy mạnh việc nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan thẩm định, có cơ chế cụ thể về đãi ngộ và sử lý sai phạm trong thực hiện nhiệm vụ.

– Nâng cao chất lượng và rút ngắn thời gian thẩm tra hồ sơ thiết kế, dự toán đặc biệt đối với những dự án lớn, để tránh những trường hợp tính sai khối lượng, áp sai đơn giá, bỏ sót hạng mục…, từ đó đảm bảo tính chính xác của dự toán, xác định đủ vốn đầu tư. Quản lý chặt chẽ kết quả thực hiện của tư vấn thẩm tra trên cơ sở khối lượng công việc thẩm tra phải thực hiện đầy đủ theo quy định và các cam kết trong hợp đồng.

– Nâng cao chất lượng công tác đấu thầu, lựa chọn nhà thầu: Đấu thầu là cách rất tốt để kiểm soát, tiết kiệm có hiệu quả chi phí của dự án. Cần thực hiện linh hoạt các hình thức lựa chọn nhà thầu phù hợp với tính chất, loại và cấp công trình theo quy định của pháp luật. Việc quyết định hình thức lựa chọn nhà thầu phải hết sức linh hoạt; phải lấy mục tiêu hiệu quả, rút ngắn thời gian thực hiện dự án, đồng thời vẫn theo nguyên tắc lựa chọn được nhà thầu có đủ điều kiện, năng lực, kinh nghiệm, có giá hợp lý, phù hợp với mục tiêu quản lý. Tổng hợp kết quả triển khai thực hiện các dự án trong thời gian vừa qua trong điều kiện giá vật tư xây dựng có nhiều biến động, chế độ chính sách thường xuyên được thay đổi điều chỉnh luôn dẫn đến làm tăng giá trị công trình. Để tiết kiệm vốn đầu tư nghiên cứu đề xuất được áp dụng hình thức hợp đồng khoán gọn. Khi nhà thầu hoàn thành hợp đồng thì sẽ được thanh toán theo kinh phí đã ký kết từ đầu, đây cũng là một điều kiện để có thể lựa chọn được những nhà thầu có năng lực vì trong điều kiện biến động như vậy thì ngay trong nội tại nhà thầu đã phải tính toán xác định thực sự năng lực của mình và xây dựng đầy đủ phương án để có thể đáp ứng khi thực hiện hợp đồng.

– Kiểm soát tốt chi phí ở giai đoạn kết thúc xây dựng, đưa công trình vào khai thác sử dụng. Khi công trình hay giai đoạn dự án hoàn thành để chuẩn bị đưa vào vận hành, khai thác sử dụng, phải thực hiện khống chế theo khoản mục chi phí, như: Giá trị quyết toán phần xây dựng kiến trúc; Giá trị quyết toán phần mua sắm, lắp đặt thiết bị; Giá trị quyết toán các khảon mục khác. Để kiểm soát được thì phải thực hiện tốt các nội dung: Đối chiếu khối lượng hoàn thành nghiệm thu theo thiết kế; Đối chiếu khối lượng phát sinh được thanh toán và không được thanh toán; Phân tích, so sánh để loại bỏ những khối lượng, chủng loại, mức chênh lệch, tìm nguyên nhân tăng giảm; Kiểm tra đối chiếu giá trị thanh toán theo hợp đồng; So sánh, phân tích giá thành xây dựng; Lập báo cáo giải trình.

– Làm tốt công tác quản lý hành lang bảo vệ công trình thủy lợi: Tình trạng vi phạm hành lang bảo vệ công trình thủy lợi của người dân ở Hưng Yên diễn ra rất phổ biến và phức tạp, cùng với đó là việc giải quyết sử lý vi phạm không quyết liệt và cấp quyền sử dụng đất còn nhiều bất cập của các cấp chính quyền đã dẫn đến kinh phí phục vụ cho công tác giải phóng mặt bằng của các dự án rất lớn. Để tiết kiệm kinh phí trong GPMB để tập trung vào đâu tư xây dựng công trình đề nghị Tỉnh cần phải có quy định về loại đất được chi trả bồi thường hỗ trợ theo hướng: không bồi thường hỗ trợ cho các loại đất do các cấp chính quyền địa phương quản lý, các diện đất bị lấn chiếm và tài sản trên đất lấn chiếm; Khi nhận được thông báo về thời điểm sẽ tiến hành triển khai thi công xây dựng thì các cấp chính quyền phải không được cho phép người dân canh tác trên diện tích đất sẽ xây dựng công trình để không phải bồi thường hỗ trợ về cây cối moa màu, nếu địa phương nào sai phạm thì phải tự bỏ tiền để bồi thường; Có chế tài sử phạt nghiêm khắc những sai phạm trong cấp quyền sử dụng đất vào cả hành lang bảo vệ công trình thủy lợi đã được quy định trong luật; Chỉ đạo quyết liệt hơn nữa, đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác giải phóng mằt bằng, không để sảy ra tình trạng chậm tiến độ thi công xây dựng do không có mặt bằng, việc làm chậm tiến độ thi công xây dựng cũng là nguyên nhân làm tăng chi phí đầu tư.

2.2. Công tác quản lý chất lượng công trình

Chất lượng công trình xây dựng thủy lợi là một vấn đề lớn hết sức quan trọng có liên quan đến an nguy của quốc gia. Ở nước ta, chất lượng và an toàn của công trình thủy lợi được nhà nước đặc biệt quan tâm. Trong thời gian qua, công tác quản lý chất lượng các dự án công trình thủy lợi đã giành được sự quan tâm của cả cộng đồng và thu được những thành công đáng kể. Kết quả có được này có liên quan mật thiết với sự tăng nhanh về số lượng và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý dự án, sự lớn mạnh của đội ngũ công nhân các ngành nghề xây dựng, với việc sử dụng vật liệu mới có chất lượng cao, việc đầu tư thiết bị thi công hiện đại, sự hợp tác học tập kinh nghiệm cùng với việc ban hành các văn bản tăng cường công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng.

Tuy vậy, bên cạnh những công trình đạt chất lượng, cũng còn không ít công trình có chất lượng kém, không đáp ứng được yêu cầu sử dụng. Đã thế, nhiều công trình không tiến hành bảo trì hoặc bảo trì không đúng định kỳ làm giảm tuổi thọ công trình. Từ đó để công tác quản lý chất lượng các dự án đầu tư xây dựng công trình thủy lợi, Công tyđã có một số giải pháp như sau:

a.Tăng cường chất lượng công tác quản lý, giám sát trong công tác khảo sát:

Cương quyết chỉ lựa chọn đơn vị thực hiện công tác khảo sát đủ năng lực, nhân sự và máy móc thiết bị. Thực hiện và tuân thủ đúng theo các quy trình, quy phạm, quy định trong các văn bản hiện hành của nhà nước về công tác khảo sát xây dựng công trình. Nhiệm vụ khảo sát phải được lập cụ thể, chi tiết cho từng hạng mục dự kiến sẽ được đầu tư trong dự án; Thực hiện và nâng cao trách nhiệm trong công tác giám sát khảo sát xây dựng của chủ đầu tư để đảm bảo số liệu khảo sát đúng với thực tế hiện trường. Tổ chức nghiệm thu kết quả khảo sát phải thực hiện đối chiếu sự hợp lý của hồ sơ khảo sát, số liệu khảo sát ngoài thực tế hiện trường.

Tăng cường Quản lý trong công tác thiết kế:

Chú trọng nâng cao chất lượng trong công tác lựa chọn nhà thầu tư vấn thiết kế, cương quyết không cho nhà thầu yếu kém về năng lực được tham gia thực hiện. Hiện nay, nhà nước đã quy định chi tiết về điều kiện hành nghề, hạng loại của các tổ chức tư vấn thiết kế, của các cá nhân. Tuy nhiên công tác này hiện nay thực hiện còn nhiều bất cập, việc cấp phép hành nghề chưa chính xác với năng lực thực sự của người được cấp. Do vậy công tác này cần phải được chấn chỉnh kịp thời. Các giải pháp kỹ thuật công trình đề xuất để đầu tư xây dựng đảm bảo phù hợp với thực tế hiện trạng của công trình, tuân thủ quy hoạch, tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy phạm hiện hành. Giải pháp kỹ thuật, quy mô, công nghệ của dự án phải là sản phẩm do tư vấn nghiên cứu đề xuất thông qua việc tính toán trên cơ sở lý luận khoa học, mọi ý kiến tham gia của chủ đầu tư, các cơ quan chức năng chỉ mang tính chất định hướng không được coi là nội dung bắt buộc tư vấn phải thực hiện theo. Mặt khác cũng cần thực hiện nghiêm túc công tác giám sát tác giả của tư vấn để kịp thời phát hiện những tồn tại của thiết kế còn mắc phải cần thiết phải điều chỉnh, kiểm tra kết quả thực hiện của nhà thầu xây lắp so với sản phẩm tư vấn đã tạo ra và có những chỉ dẫn kịp thời những điểm chưa rõ trong hồ sơ thiết kế khi triển khai thực hiện xây dựng. Hồ sơ thiết kế phải được sở chuyên ngành thẩm định trước khi chủ đầu tư phê duyệt. Để tránh việc quá tải cho cơ quan thẩm định cần phải làm tốt, có chất lượng công tác thẩm tra hồ sơ thiết kế – Dự toán trước khi trình thẩm định. Điều này đồng nghĩa với việc lựa chọn và tăng cường quản lý tốt công tác thẩm tra của các đơn vị tư vấn thẩm tra.

Một điểm nữa cũng cần đặc biệt quan tâm đối với Công ty là cần điều chỉnh, bổ sung nâng cao năng lực của Phòng Kế hoạch kỹ thuật (bộ phận thực hiện việc thẩm định hồ sơ thiết kế – Dự toán của tất cả các công trình thuỷ lợi của toàn Công ty) theo hướng kiện toàn bộ máy thực hiện theo từng bộ phận chuyên sâu, trong từng bộ phận bố trí cán bộ quản lý theo từng loại công trình (như công trình kênh mương, trạm bơm – cống đập…), thường xuyên có kế hoạch đào tạo để năng cao năng lực cán bộ trong phòng, cập nhật đầy đủ chế độ chính sách, tranh bị cơ sở vật chất điều kiện làm việc chế độ khen thưởng để cán bộ có điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ (kinh phí thực hiện chế độ khen thưởng trích trong lệ phí thẩm định hồ sơ thiết kế – Dự toán công trình).

Quản lý trong giai đoạn thi công xây dựng công trình:

Giai đoạn thi công xây dựng công trình là giai đoạn có ảnh hưởng quan trọng và quyết định đến chất lượng công trình và nó cũng là khâu thể hiện chất lượng của quá trình hoạt động quản lý dự án. Trong giai đoạn thi công xây dựng công trình chú trọng các vấn đề sau:

– Lựa chọn nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu: Năng lực nhà thầu là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng công trình. Để có thể lựa chọn được nhà thầu thực sự có năng lực cần nâng cao chất lượng công tác lựa chọn nhà thầu xây lắp, quy định chỉ áp dụng hình thức đầu thầu rộng rãi trong lựa chọn nhà thầu (hình thức chỉ định thầu chỉ áp dụng trong tình huống khẩn cấp cần khắc phục ngay). Đề xuất điều chỉnh quy định trong đấu thầu xây lắp cho áp dụng xét nhà thầu trúng thầu có điểm tổng hợp cao nhất (tương tự như đấu thầu tư vấn) thay cho trúng thầu khi có giá thầu thấp nhất và chỉ cần vừa đủ điểm kỹ thuật như hiện nay, vì kỹ thuật trong thi công công trình thủy lợi phải được hết sức coi trọng. Quy định này sẽ giúp cho việc đấu thầu lựa chọn được nhà thầu thực sự có năng lực và để có thể thắng thầu thì ngay trong hồ sơ dự thầu nhà thầu đã phải đã phải quan tâm đề xuất rất chi tiết các nội dung: giải pháp kỹ thuật thi công, công tác quản lý chất lượng – hệ thống quản lý chất lượng của nhà thầu, tiến độ thi công, an toàn lao động, vệ sinh môi trường, huy động máy móc thiết bị phục vụ thi công, kế hoạch cung cấp vật tư, bố trí nhân sự, kế hoạch huy động nguồn lực tài chính,… Từ đó trên cơ sở các cam kết của nhà thầu trong hồ sơ dự thầu khi triển khai thi công xây dựng sẽ có được điều kiện rất thuận lợi để giám sát quản lý chất lượng công trình. Kiên quyết từ chối các nhà thầu nếu phát hiện vi phạm các điều khoản của hợp đồng và năng lực yếu.

– Tăng cường công tác giám sát thi công xây dựng công trìnhcủa chủ đầu tư, của tư vấn giám sát: thực hiện tốt và đúng quy định những việc như Kiểm tra các điều kiện khởi công công trình xây dựng; Kiểm tra sự phù hợp năng lực của nhà thầu thi công xây dựng công trình với hồ sơ dự thầu và hợp đồng xây dựng; Kiểm tra và giám sát chất lượng vật tư, vật liệu và thiết bị lắp đặt vào công trình do nhà thầu thi công xây dựng công trình cung cấp theo yêu cầu của thiết kế; Kiểm tra và giám sát trong quá trình thi công xây dựng công trình. Có chế tài sử lý nghiêm khắc những cán bộ không thực hiện đúng những quy định của nhà nước trong công tác giám sát thi công xây dựng công trình và cũng có chế độ thi đua khen thưởng cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ.

– Thực hiện tốt công tác kiểm định chất lượng công trình xây dựng, thực hiện tốt công tác này sẽ được các mặt lợi: Chủ đầu tư sẽ kiểm soát tốt về tình hình sử dụng vật liệu, thiết bị, cấu kiện xây dựng đưa vào công trình, kịp thời loại bỏ cấu kiện, vật liệu, thiết bị không đảm bảo chất lượng và chấn chỉnh những sai phạm còn mắc phải. Đối với các nhà thầu thì có cơ sở đánh giá đúng đắn chất lượng công trình mình thực hiện, có cơ sở giải quyết các tranh chấp về chất lượng (nếu có). Đối với cơ quan quản lý nhà nước có số liệu định lượng chính xác làm cơ sở chỉ đạo về quản lý chất lượng công trình xây dựng một cách toàn diện hiệu quả hơn.

– Tăng cường công tác giám sát của cộng đồng, có cơ chế để khuyến khích việc giám sát cộng đồng hoạt động có hiệu quả như thưởng cho những phản ánh chính xác về việc sai phạm trong thi công của nhà thầu xây lắp, sai phạm của các của thể khác cùng tham gia thực hiện dự án.

– Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước để kịp thời chấn chỉnh, sử phạt những sai phạm mắc phải của các đơn vị tham gia thực hiện dự án; tổng kết, đánh giá và nhân rộng những mô hình đã phát huy hiệu quả trong công tác quản lý. Nghiêm túc thực hiện kết luận của các cuộc kiểm tra, thanh tra, có kiểm soát kết quả thực hiện kết luận. Cũng thông qua công tác này tổng kết lại những bất cập còn mắc phải trong các quy định của nhà nước về công tác đầu tư xây dựng công trình kiến nghị cấp trên điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp với thực tế khi triển khai thực hiện.

Quản lý trong khai thác sử dụng công trình:

Các xí nghiệp KTCTTL các huyện phải thường xuyên bám sát địa bàn, công trình, kịp thời phát hiện những hư hỏng trong quá trình khai thác sử dụng công trình để sửa chữa và phối hợp với chính quyền địa phương không để người dân lấn chiếm, vi phạm hành lang bảo vệ công trình.

Hoàn thiện mô hình quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình

Công ty nghiên cứu xây dựng hoàn thiện mô hình quản lý đầu tư xây dựng các dự án theo hướng tích cực và năng động hơn. Mô hình mới được xây dựng, không những chỉ quan tâm đến đầu tư xây dựng mà cần quản lý khai thác công trình một cách hiệu quả nhất. Mô hình là sự liên kết hữu cơ (có thực hiện, có phản hồi, điều chỉnh hoàn thiện) giữa khâu Quy hoạch – Đầu tư xây dựng – Quản lý khai thác. Từ mô hình tổng thể, căn cứ vào Luật xây dựng và các văn bản dưới luật để thiết kế một hệ thống thực hiện. Hệ thống này thể hiện rõ các công đoạn của công việc, chỉ ra ai có trách nhiệm giải quyết, nội dung, phạm vi, thời gian của mỗi công đoạn cần được chỉ ra rõ ràng và yêu cầu về cán bộ, trang thiết bị… để hoàn thành nhiệm vụ; khi vận hành hệ thống sẽ bộc lộ các khâu yếu, các cán bộ không đủ năng lực… Hệ thống này cần được thiết lập với các yêu cầu và tiêu chuẩn hoá như tiêu chuẩn ISO.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, có 2 hình thức quản lý dự án là: (1) Chủ đầu thuê tổ chức tư vấn quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình; (2) Chủ đầu trực tiếp quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình.

Trong điều kiện hiện nay ở Hưng Yên, các tổ chức tư vấn quản lý dự án chưa được phát triển mạnh, dịch vụ tư vấn còn rất nhiều bất cập, chưa đáp ứng được cả về chất lẫn về lượng. Cơ chế đã cho phép nhưng chưa có những chế tài chính sách cụ thể để có thể phát triển tốt và có hiệu quả loại hình quản lý này. Từ đó đối với Hưng Yên, đang áp dụng mô hình chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án trong các dự án đầu tư xây dựng thủy lợi. Theo đó chủ đầu tư thành lập ban quản lý dự án để giúp chủ đầu tư làm đầu mối quản lý dự án. Khi đó chất lượng của Ban quản lý dự án là mấu chốn thực hiện thành công dự án.

Về giao chủ đầu tư: UBND Tỉnh giao chủ đầu tư công trình cho Công ty TNHH MTV KTCT Thủy lợi tỉnh là đơn vị quản lý khai thác, sử dụng (phù hợp với qui định của pháp luật). Chủ đầu tư là đơn vị quản lý sử dụng thì việc đề xuất mục tiêu, quy mô đầu tư của dự án sẽ phù hợp với yêu cầu trong quản lý khai thác sử dụng, phù hợp với quy hoạch thủy lợi, quy hoạch thoát lũ do cơ quan quản lý và phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh. Để nâng cao hơn nữa trong quản lý địa bàn của các huyện, trong từng dự án cụ thể trên từng địa bàn thì cấp quản lý chuyên môn ở huyện được cử cán bộ vào cùng tham gia quản lý dự án đó. Trong hoạt động của chủ đầu tư rất cần thiết phải nâng cao chất lượng của các bộ phận giúp việc, giúp cho chủ đầu tư trong công tác thẩm định và phê duyệt các nội dung trong quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình thuộc thẩm quyền của chủ đầu tư. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, trong đó phải xác định nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến công tác thẩm định là nhân tố con người. Do đó, cần phải quan tâm đầu tư để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, phương pháp giải quyết công việc và ý thức, tinh thần trách nhiệm, nâng cao chất lượng trong tuyển dụng con người, trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, phương tiện để cán bộ có điều kiện phát huy hết khả năng vốn có. Thẩm định phải kết hợp với kiểm tra hồ sơ và kiểm tra hiện trường. Khi thẩm định phải phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ thẩm định với Ban quản lý dự án. Chất lượng công tác thẩm định cũng là kênh thông tin đánh giá kết quả thực hiện và năng lực của Ban quản lý dự án đã được thành lập để từ đó có những điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Phân định trách nhiệm cụ thể cho cán bộ giúp việc cho chủ đầu tư, cụ thể: Đối với các dự án Công ty làm chủ đầu tư đề xuất giao nhiệm vụ cho các đơn vị như sau: Phòng KHKT có trách nhiệm thẩm định việc tuân thủ đầy đủ chế độ chính sách, quy trình, quy phạm trong công tác đầu tư xây dựng công trình. QLN&CTTL có trách nhiệm thẩm định việc tuân thủ quy hoạch thủy lợi, quy hoạch thoát lũ, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh và quản lý về thực trạng hệ thống thủy lợi đã có.

Trong bộ máy hoạt động của Ban quản lý có giám đốc, các phó giám đốc và thành lập các phòng, bộ phận thực hiện chuyên sâu vào từng lĩnh vực. Phải xây dựng được quy chế hoạt động của ban trên cơ sở các quy định hiện hành của nhà nước trong công tác đầu tư xây dựng công trình quy chế phải quy định cụ thể được quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm của cán bộ trong các phòng và bộ phận, sự phối kết hợp trong thực hiện nhiệm vụ giữa các phòng, bộ phận. Khi được giao quản lý cùng lúc nhiều dự án nên áp dụng hình thức giám đốc của từng dự án để giảm tải cho giám đốc Ban quản lý dự án khi phải là giám đốc của tất cả các dự án được giao.

Đào tạo nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý dự án

Ở bất kỳ tổ chức nào, nhân lực cũng là một lực lượng quan trọng quyết định đến việc thực hiện thành công các mục tiêu của tổ chức, trong công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng cũng vậy. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà tiến bộ kỹ thuật mới về xây dựng cũng như công nghệ thông tin ứng dụng trong quản lý phát triển mạnh mẽ, thay đổi hàng ngày, cùng với đó là sự thay đổi liên tục về các quy định của Nhà nước đối với công tác đầu tư xây dựng công trình. Do đó, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thích ứng với tình hình mới, có đủ trình độ và năng lực quản lý dự án là một yêu cầu cấp thiết tại các Ban quản lý dự án.

Yêu cầu đối với đội ngũ nhân viên làm công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng là phải có kiến thức về quản lý dự án đầu tư xây dựng, thường xuyên cập nhật và nắm vững chế độ chính sách về đầu tư xây dựng cơ bản, quy trình thực hiện đầu tư, các nội dung trong quy trình đó, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhiệt tình trong công tác, cẩn thận, có trách nhiệm, có tinh thần hơp tác, biết khai thác cập nhật thông tin và triển khai kiến thức trong thực hiện nhiệm vụ được giao,…

Tổ chức các phong trào thi đua, nhằm kích thích cán bộ phát huy tính chủ động sáng tạo cũng như tính đoàn kết phối hợp cùng thực hiện giải quyết công việc từ đó có thể đẩy mạnh việc hoàn thành các nhiệm vụ được giao.

Nhằm hạn chế tiêu cực, nghiên cứu trích thưởng cho người có công chống thất thoát vốn Nhà nước trong đầu tư xây dựng. Đồng thời hết sức chú ý đến việc tu dưỡng đạo đức, phẩm chất, tinh thần trách nhiệm của người cán bộ quản lý, mặt khác cơ quan cần tăng cường kiểm tra giám sát ngăn ngừa phiền hà, tiêu cực, đi liền với việc thực hiện nghiêm túc pháp lệnh chống tham nhũng và pháp lệnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí.

3. Công tác quản lý khai thác

Công ty TNHH một thành viên KTCT thủy lợi tỉnh quản lý 154 trạm bơm với 615 máy bơm các loại và 1962,475 km kênh mương các loại, kênh đất 1729,223 km, kiên cố hóa 233,252 km. Cống lớn trang bị từ máy đóng mở V3 trở lên 338 cống và 2625 công trình trên kênh. Diện tích tưới hàng năm 109.531ha của 03 vụ. Hệ thống kênh mương tưới, tiêu đã xuống cấp nhiều do tác động của thiên nhiên và vi phạm công trình do tác động của con người dẫn đến mặt cắt kênh bị co hẹp. Ngoài ra còn có các HTX dịch vụ nông nghiệp quản lý các trạm bơm dã chiến và hệ thống kênh muơng tưới, tiêu nội đồng.

Nguồn thu tài chính của công ty hoàn toàn từ nguồn thủy lợi phí hàng năm khoảng 67,5 – 68,5 tỷ đồng công tác hợp đồng, nghiệm thu, cấp bù thủy lợi phí tiến hành kịp thời đúng theo quy định hiện hành. Công tác chi tài chính thực hiện theo thông tư số 11/2009/TT-BTC hướng dẫn đặt hàng giao kế hoạch đối với các đơn vị làm nhiệm vụ quản lý khai thác công trình thủy lợi và quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước làm nhiệm vụ quản lý, khai thác công trình thủy lợi. Trong quá trình thực hiện công tác tài chính đối với các doanh nghiệp làm nhiệm vụ khai thác công trình thủy lợi gặp không ít khó khăn do giá cả vật tư, điện tăng liên tục tiền lương hàng năm đều thay đổi theo hướng tăng lên, chế độ chính sách tiền lương trong các doanh nghiệp KTCTTL chưa có sự thống nhất đồng bộ trong toàn quốc làm cho các doanh nghiệp rất lúng túng trong việc áp dụng mức lương tối thiểu để chi trả người lao động. Công tác duy tu sửa chữa chưa có định mức cụ thể dẫn đến tình trạng có tiền đến đâu sửa chữa đến đó, không xác định đượctiêu chí đánh giá hoàn thành kế hoạch một cách khách quan trung thực. Ngoài kinh phí cấp bù thủy lợi phí theo chế độ các công ty còn được cấp bù kinh phí hợp lý nhưng do tỉnh không có kinh phí việc cấp bù hỗ trợ không được thực hiện.

Công tác quản lý khai thác được quan tâm, sở NN& PTNN đã chỉ đạo quản lý, điều hành hệ thống, giải toả vi phạm đảm bảo chống hạn, chống úng đáp ứng yêu cầu sản xuất và giảm nhẹ thiên tai.

Do tốc độ phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và đô thị tại một số huyện đã làm phá vỡ quy hoạch thuỷ lợi. Hiện nay đang chuẩn bị phê duyệt bổ sung quy hoạch thuỷ lợi đến năm 2015 để đáp ứng yêu cầu phục vụ.

Việc phân cấp quản lý khai thác công trình thuỷ lợi trên địa bàn tỉnh Hưng Yên hiện tại thực hiện theo hướng dẫn số 367/HD-LN ngày 11/9/1998 của liên ngành NN & PTNT – Tài chính vật giá – Cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Hướng dẫn thực hiện quyết định số 1112/ QĐ-UB ngày 17/6/1998 của UBND tỉnh Hưng Yên “V/v ban hành mức thu thuỷ lợi phí”.

Ngày 17/6/1998 UBND tỉnh Hưng Yên ban hành quyết định số 1112/QĐ-UB V/v ban hành mức thu thuỷ lợi phí trên cơ sở mức thu của nghị định số 112-HĐBT ngày 25/8/1984 của Hội đồng Bộ truởng( nay là chính phủ). Trên cơ sở quyết định số 1112/QĐ-UB liên ngành có hướng dẫn số 367/HD-LN tại mục I điểm 3( mức thu TLP) có nêu:

Đối với các đơn vị nhà nước: Mức thu thuỷ lợi phí quy định cho xí nghiệp QL KT CTTl là mức thu đảm bảo chi phí tối thiểu cho công tác quản lý khai thác hệ thống công trình thuỷ lợi. Đảm bảo đầu tư trở lại từ công trình đầu mối đến hết kênh cấp II của hệ thống, TB liên huyện, hết kênh cấp I đối với trạm bơm liên xã, hết kênh chính đối với trạm bơm phục vụ một xã. Trưòng hợp với vùng diện tích được tưới bằng biện pháp tự chảy xí nghiệp QL KT CTTL phải đảm bảo chi phí để dẫn nước, dâng hết kênh cấp II. Trường hợp với vùng diện tích được tưới bằng biện pháp tự chảy xí nghiệp QL KTCTTL chỉ tạo nguồn nước để dịch vụ thuỷ nông bơm dầu, bơm điện và tát tay thì xí nghiệp phải chi phí đảm bảo dẫn nước, cung cấp nước cho các trạm bơm điện, bơm dầu và hộ nông dân tát tay từ kênh chìm lên mặt lên mặt ruộng”.

Đối với các Hợp tác xã dịch vụ:Mức thu quy định cho dịch vụ thuỷ nông (HTX) là mức thu được tính toán trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật của nhà nước, đảm bảo chi phí cho dịch vụ thuỷ nông xã cụ thể là:

+ Chi phí cho quản lý khai thác bơm điện, bơm dầu của địa phương( chi tiền điện, tiền dầu, khấu hao cơ bản TSCĐ, sửa chữa thay thế máy móc thiết bị…).

+ Chi phí tu sửa công trình, kênh mương, tiểu thuỷ lợi thuộc phạm vi phân cấp cho dịch vụ thuỷ nông (HTX) quản lý.

+ Chi phí dẫn nước, điều tiết nước và bảo vệ công trình kênh mương trên địa bàn xã quản lý.

– Việc phân cấp quản lý khai thác các công trình thuỷ lợi hiện tại theo hướng dẫn số 367/HD-LN đã nêu rõ nhiệm vụ của các đơn vị quản lý KTCTTL tương ứng với mức thu thuỷ lợi phí thì trách nhiệm quản lý đến đâu, nhiệm vụ phải làm thế nào. Tương tự như vậy đối với hợp tác xã.

Nhưng trong quá trình thực hiện đã nảy sinh những tồn tại sau:

+ Phân cấp theo 367 được phân định danh giới giữa các công ty nhà nước và HTX là cấp kênh, mà cấp kênh được phân cấp là lưu lượng nước phục vụ tưới, tiêu. Vì vậy chưa cụ thể được giới hạn phân chia giữa các Công ty với các HTX dịch vụ nông nghiệp.

+ Có hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm giữa các đơn vị nhà nước với các HTX dịch vụ nông nghiệp trong việc đầu tư tu bổ, sửa chữa công trình, máy móc thiết bị, quản lý vi phạm và bảo vệ công trình dẫn đến công trình không có ai quản lý.

+ Công trình không được đầu tư, tu bổ, sửa chữa kịp thời dẫn đến không đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Vi phạm, lấn chiếm, ách tắc dòng chảy đặc biệt là hệ thống nội đồng do các xã quản lý.

+ Tranh chấp lưu vực phục vụ tưới, tiêu, biện pháp tưới, tiêu công trình nhà nước thừa công suất phục vụ. Trạm bơm dã chiến ngoài quy hoạch vẫn tồn tại ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư .

+ Hệ thống công trình do các Công ty quản lý đội ngũ cán bộ công nhân viên được đào tạo có trình độ chuyên môn phù hợp với công việc, chất lượng công tác quản lý khai thác tốt hơn. Công trình máy móc, thiết bị được đầu tư tu bổ kịp thời, vận hành khai thác đúng quy trình, quy phạm kéo dài thời gian phục vụ hiệu quả hơn. Công tác thu chi tài chính đúng theo chế độ chính sách hiện hành.

+ Hệ thống công trình thủy lợi do các HTX dịch vụ Nông nghiệp quản lý chủ yếu làm nhiệm vụ tưới hoặc là tưới cấp 2 cho các trạm bơm của các Xí nghiệp, nhiệm vụ tiêu chủ yếu của các trạm bơm do nhà nước quản lý. Đội ngũ quản lý, công nhân vận hành về cơ bản không được đào tạo bài bản đúng chuyên môn nghiệp vụ, chất lượng công tác quản lý khai thác kém hiệu quả hơn. Công trình máy móc, thiết bị không có kinh phí để đầu tư tu bổ kịp thời, vận hành khai thác không đúng quy trình quy phạm công trình nhanh bị xuống cấp không đáp ứng được yêu cầu phục vụ sản xuất, có hiện tượng tranh thủ lấy nước của các Xí nghiệp bơm tưới sau đó vận hành trạm bơm dã chiến lấy ví dụ và nhận toàn bộ diện tích do HTX phục vụ. Công tác thu chi tài chính có nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu theo quy định hiện hành của nhà nước.( Hầu hết trạm bơm chỉ còn lại là các nhà tạm hoặc xuống cấp nghiêm trọng, kênh mương rau bèo dày đặc khả năng dẫn nước kém)

Để hệ thống công trình thuỷ lợi phát huy hiệu quả phục vụ sản xuất nông nghiệp thì việc phân cấp quản lý khai thác công trình thuỷ lợi trên địa bàn tỉnh Hưng Yên là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. UBND tỉnh Hưng Yên đã có quyết định số 05/2012/QĐ – UBND ngày 18/4/2012 quyết định của UBND tỉnh Hưng Yên quyết định phê duyệt Quy định phân cấp quản lý, khai thác công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh Hưng Yên các đơn vị đang triển khai công tác phân cấp công trình thủy lợi.

*Công tác kiển tra xử lý vi phạm công trình thủy lợi được làm thường xuyên

Do nhiều nguyên nhân chủ quan khách quan các vi phạm công trình thủy lợi chủ yếu xảy ra trước giai đoạn 2005 từ năm 2003 trở về trước. sau giai đoạn 2003 tình hình vi phạm có chiều hướng giảm nhiều mức độ tái diễn ít do có sự tăng cường quản lý của các cấp các ngành trong tỉnh. Tổng hợp vi phạm các công trình thủy lợi do Công ty quản lý như sau:

– Vi phạm hành lang bảo vệ CTTL: 1.264 trường hợp

Đã lập biên bản:     1.264 trường hợp

Đã giải tỏa được:         33 trường hợp

Chưa giải tỏa được: 1.231 trường hợp

– Vi phạm cản trở ách tắc dòng chảy: 359 trường hợp

Vi phạm trên hệ thống sông trục hệ thống kênh tưới bao gồm các hình thức như san lấn dòng chảy, đăng chắn thả cá, lều quán, lưới vây thả vịt, lấn chiếm hành lang bảo vệ công trình thủy lợi để tăng gia sản xuất, xây lều quán , nhà cửa, công trình tạm, tường chắn, tường rào trên bờ, hành lang bảo vệ công trình thủy lợi, đổ rác, xả thải vào công trình thủy lợi.

Theo chức năng quy định thẩm quyền của đơn vị trực tiếp quản lý công trình thủy lợi ( Xí nghiệp, Công ty), sau khi phát hiện vi phạm công trình thủy lợi các đơn vị KTCTTL, phối hợp cùng chính quyền địa phương và các ngành liên quan tiến hành, kiểm tra mức độ vi phạm lập biên bản hiện trường yêu cầu các trường hợp vi phạm (doanh nghiệp, các hộ vi phạm… ), thực hiện ngừng ngay việc vi phạm, khôi phục lại hiện trạng ban đầu. Báo cáo các cấp có thẩm quyền có biện pháp, chế tài xử lý các trường hợp cố tình vi phạm.

Đơn vị chỉ có kết quả tổng hợp các hành vi vi phạm, lập biên bản. Về xử phạt hành chính theo Nghị định chưa thấy các cấp chính quyền gửi thông báo kết quả xử phạt đến Công ty do đó Công ty không nắm được cụ thể

* Thuận lợi:

– Được sự quan tâm chỉ đạo sát xao của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp trong tỉnh đối với công tác quản lý bảo vệ công trình thủy lợi thông qua các cơ quan truyền thông như Báo, Đài truyền hình địa phương, mở các lớp tập huấn, pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi Nghị định, thông tư liên quan để nhân dân hiểu và chấp hành thực hiện tạo hành lang pháp lý để thực hiện Nghi định. Thông qua các hội nghị triển khai công tác phòng chống lụt bão, công tác sản xuất nông nghiệp của các vụ trong năm để tổng kết đánh giá công tác giải tỏa vi phạm công trình thủy lợi. Tại những vị trí vi phạm nhạy cảm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, hành lang giao thông tổ chức cưỡng chế giải tỏa vi phạm công trình thủy lợi. Tỉnh đã đầu tư xây dựng các bãi rác tập trung để giảm thiểu việc đổ rác thải vào công trình thủy lợi, có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh. Gắn trách nhiệm của các đồng chí đứng đầu chính quyền các cấp với công tác quản lý và bảo vệ công trình thủy lợi. Nhận thức của nhân dân ngày một nâng lên với kiến thức luật pháp trong đó có các văn bản liên quan đến bảo vệ khai thác công trình thủy lợi. Các cấp chính quyền xử lý cương quyết đối với các vi phạm công trình thủy lợi như yêu cầu dừng vi pham, khôi phục lại hiện trạng ban đầu, xử phạt vi phạm hành chính, rút giấy phép xả thải vào công tình thủy lợi.

– Nghi định xây dựng được cơ bản những hành vi vi phạm, chế tài xử lý những hành vi vi phạm công trình thủy lợi là hành lang pháp lý để quản lý khai thác công trình thủy lợi.

* Khó khăn:

– Nhận thức chưa đúng của một bộ phận nhân dân và các doanh nghiệp về công tác bảo vệ và khai thác công trình thủy lợi dẫn tới việc lấn chiếm xả thải vào công trình thủy lợi.

– Nhiều vụ vi phạm vẫn còn tồn tại chưa giải quyết rứt điểm được do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan liên quan đến vấn đề cơ chế chính sách do lịch sử để lại đặc biệt các vi phạm công trình thủy lợi từ năm 2003 trở về trước.

– Việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi do chính quyền các cấp xử lý nhưng chưa có sự phối hợp đồng bộ như sau khi xử lý có thông báo tới đơn vị quản lý khai thác công trình thủy lợi để đơn vị biết theo dõi quản lý. Nhiều vụ việc xử lý chưa nghiêm túc, còn có tình trạng nể nang, né tránh trong công tác xử lý vi phạm công trình thủy lợi.

– Chưa có chế tài đủ mạnh cho các đơn vị quản lý khai thác công trình thủy lợi để đình chỉ vi phạm công trình thủy lợi ngay từ khi mới tiến hành vi phạm. Vì các đơn vị quản lý khi phát hiện vi phạm công trình thủy lợi chỉ có nhiệm vụ lập biên bản yêu cầu dừng vi phạm và báo cáo chính quyền các cấp , thanh tra chuyên ngành tiến hành xử phạt do hiệu lực thực hiện chưa mạnh.

Thống kê
  • Đang truy cập3
  • Hôm nay1,433
  • Tháng hiện tại26,107
  • Tổng lượt truy cập4,788,455
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây